Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) cho biết sẽ hoàn thiện chính sách, pháp luật về KH, CN & ĐMST, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, bảo đảm nguyên tắc công khai minh bạch và công bằng.
Theo Bộ KH&CN, để thực hiện mục tiêu thúc đẩy, ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH, CN & ĐMST), nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0) để phục hồi kinh tế, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước, ngành KH&CN thời gian tới sẽ tập trung triển khai phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ đến năm 2025 và một nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2023.
Cụ thể, tiếp tục đổi mới cơ bản, toàn diện, đồng bộ về tổ chức, cơ chế tài chính, quản lý, cơ chế tự chủ của các tổ chức KH&CN công lập phù hợp với đặc thù của hoạt động KH&CN; hoàn thiện chính sách, pháp luật về KH, CN & ĐMST, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, bảo đảm nguyên tắc công khai minh bạch và công bằng.
Tập trung nguồn lực đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KH&CN phục vụ hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội bền vững, bảo đảm an ninh – quốc phòng, đồng thời chú trọng nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng, kết hợp thu hút nguồn lực xã hội đặc biệt là từ Quỹ phát triển KH&CN của các doanh nghiệp. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, trong đó lấy doanh nghiệp làm trung tâm, viện nghiên cứu, trường đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh.
Tiếp tục thúc đẩy phát triển thị trường KH&CN và hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo để phục vụ phát triển kinh tế – xã hội bền vững, bảo đảm an ninh – quốc phòng. Tiếp cận, khai thác triệt để kết quả, thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, làm chủ và ứng dụng nhanh chóng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. Tiếp tục tăng cường đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế và truyền thông về KH, CN & ĐMST.
Bộ KH&CN cũng đặt mục tiêu hoạt động KH, CN & ĐMST đến năm 2025. Cụ thể, phấn đấu tỷ lệ đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt mức 50% thông qua các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của các viện nghiên cứu và trường đại học; hoạt động đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực quản trị, ứng dụng và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
KH, CN & ĐMST đóng góp vai trò vào phát triển công nghiệp mũi nhọn, trọng tâm là công nghiệp chế biến, công nghiệp năng lượng, năng lượng mới, năng lượng tái tạo, góp phần quan trọng vào cơ cấu lại nền kinh tế và nền công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát triển đồng bộ, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm khoa học xã hội nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,7.
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) không ngừng được cải thiện, phấn đấu thuộc nhóm 42 quốc gia hàng đầu thế giới. Đẩy mạnh việc huy động đa dạng các nguồn lực để tăng cường đầu tư phát triển tiềm lực KH&CN để đến 2025 đầu tư cho KH&CN đạt 1,2% – 1,5% GDP, trong đó tổng chi quốc gia cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt 0,8% – 1% GDP và đóng góp của xã hội cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ chiếm 60% – 65%.
Tiếp tục đổi mới, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả hoạt động, mức độ tự chủ của các tổ chức KH&CN công lập, tiếp cận chuẩn mực quốc tế. Phấn đấu có từ 25 đến 30 tổ chức KH&CN được xếp hạng khu vực và thế giới. Nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (quy đổi toàn thời gian) đạt 10 người trên một vạn dân.
Số doanh nghiệp đạt tiêu chí doanh nghiệp khoa học và công nghệ và số doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tăng tối thiểu 1,5 lần so với năm 2020; tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt trên 30%. Tập trung xây dựng năng lực công nghệ cốt lõi thúc đẩy tiêu chuẩn, đo lường chất lượng và phát triển công nghệ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh.
Số lượng công bố quốc tế tăng trung bình 10%/năm. Số lượng đơn đăng ký sáng chế và văn bằng bảo hộ sáng chế tăng tối thiểu 12% – 14%/năm; số lượng đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng tăng tối thiểu 10% -12%/năm, 8% – 10% trong số đó được đăng ký bảo hộ ở nước ngoài; tỷ lệ sáng chế được khai thác thương mại đạt 6% – 8% số sáng chế được cấp bằng bảo hộ. Phát triển được hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI) đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế mạnh mẽ về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, thuộc nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới. Chuyển đổi số các quy trình quản lý chương trình, nhiệm vụ KH&CN, sẵn sàng tiến tới quản lý, tác nghiệp 100% trên môi trường mạng.
Phong Lâm
(Nguồn vietq.vn | Ngày 06/02/2023)